Các nguồn nước khoáng, nước nóng ở Việt Nam đã đi vào cuộc sống với tốc độ phát triển mạnh mẽ, đem lại lợi ích cho toàn nền kinh tế.
Gần 300 nguồn nước khoáng giá trị cao
Theo “Danh bạ các nguồn nước khoáng và nước nóng Việt Nam” do Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam thuộc Bộ Công nghiệp (cũ) phát hành cuối thập niên 1990, trên toàn quốc từ Lai Châu đến Cà Mau có khoảng 400 nguồn nước khoáng thiên nhiên, trong đó gần 300 nguồn đã được điều tra, có kết quả phân tích mẫu tương đối đầy đủ.
Các nguồn nước khoáng ở Việt Nam được chia thành 12 loại, gồm nước khoáng chứa carbonic, silic, sulfur - hydro, fluor, arsen, sắt brom, iod, bor, radi và nước khoáng hóa (có độ khoáng hóa cao, từ 1.000mg/l trở lên) và cuối cùng là nước nóng (có nhiệt độ từ 30oC trở lên).
Tài nguyên nước khoáng của nước ta phong phú về số lượng, đa dạng về kiểu loại và có giá trị sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau. Về mặt y học, nước khoáng Việt Nam có tác dụng chữa trị được nhiều chứng bệnh thần kinh, hô hấp, tiêu hóa, tim mạch, cơ khớp, da liễu, phụ khoa, chấn thương, bệnh nghề nghiệp.
Có thể sử dụng chúng với nhiều liệu pháp khác nhau như tắm ngâm, uống, xông, súc rửa... Các loại bùn khoáng tích tụ ở những nơi xuất lộ nước khoáng cũng có giá trị chữa bệnh rất tốt.
Phần lớn nguồn nước khoáng có độ khoáng hóa vừa phải, vị ngon, nhất là loại nước khoáng carbonic, rất thích hợp cho công nghệ đóng chai làm hàng giải khát, uống chống nóng, chống mất muối vì đổ nhiều mồ hôi do lao động, chơi thể thao...
Nhiều nguồn nước khoáng có chứa một số hợp chất, khí hoặc vi nguyên tố với hàm lượng lớn, trong điều kiện kinh tế kỹ thuật cho phép có thể tách chúng thành những sản phẩm có ích như khí CO2, soda, muối ăn, brom, iod...
Đa dạng công dụng được khai thác
Những nguồn nước khoáng có giá trị khai thác phục vụ du lịch - giải trí, đặc biệt nhiều nguồn nằm gần những danh lam thắng cảnh hoặc di tích lịch sử nổi tiếng, có thể liên kết với nhau tạo thành những quần thể du lịch hấp dẫn.
Sự phong phú các nguồn nước nóng với nhiều cấp nhiệt độ cho phép khai thác năng lượng địa nhiệt phục vụ các mục đích khác nhau: với nhiệt độ thấp thì để tắm về mùa rét, ấp trứng, ngâm giống, nuôi trồng thủy sản; với nhiệt độ trung bình thì để sưởi ấm, sấy nông hải sản...; với nhiệt độ cao thì để phát điện.
Trong thực tế, từ thời xa xưa, nhân dân ta đã biết đến giá trị y học của nước khoáng và sử dụng chúng vào mục đích chữa bệnh, nhưng việc khai thác một cách chính quy thì mới bắt đầu từ năm 1928 với sự ra đời Xí nghiệp nước suối Vĩnh Hảo với sản lượng ban đầu 30-40 nghìn lít/năm. Xí nghiệp còn tiếp tục hoạt động cho đến ngày nay, mỗi năm sản xuất hàng chục triệu lít.
Trong thời kháng chiến chống thực dân Pháp, ngành y tế đã dùng nước khoáng Kênh Gà để chữa trị thương tật cho thương bệnh binh. Nhưng phải đến những năm 1973 – 1974, ba cơ sở điều dưỡng tương đối chính quy mới được xây dựng tại các nguồn nước khoáng Mỹ Lâm (Tuyên Quang), Quang Hanh (Quảng Ninh) và Mó Đá (Hòa Bình). Tuy quy mô nhỏ bé (mỗi cơ sở 50 - 60 giường) nhưng có thể xem đây là những viên gạch đặt nền móng cho lĩnh vực y học thủy liệu pháp ở nước ta.
Sau khi thống nhất đất nước, một cơ sở điều dưỡng bằng nước khoáng thứ tư được xây dựng tại nguồn nước khoáng Hội Vân (Bình Định). Các công trình thử nghiệm lâm sàng sử dụng nước khoáng và bùn khoáng từ nguồn Đảnh Thạnh (Khánh Hòa) do Ty Y tế tỉnh Phú Khánh (cũ) tiến hành vào những năm 1980 - 1985 cũng đem lại hiệu quả tốt.
Một lĩnh vực ứng dụng quan trọng của nước khoáng là đóng chai làm dược liệu và uống giải khát.
Một hướng mới trong lĩnh vực sử dụng nước khoáng là khai thác năng lượng địa nhiệt đã được bắt đầu bằng những công trình thí nghiệm sấy nông sản tại hai nguồn nước khoáng Mỹ Lâm (650C) và Hội Vân (850C) trong những năm 1980 do Tổng cục Mỏ và Địa chất (cũ) cùng với các cơ quan nghiên cứu năng lượng mới của Bộ Điện lực (cũ) và Trường Đại học Bách khoa Hà Nội tiến hành.
Qua tính toán sơ bộ, với mức khai thác hạn chế, mỗi năm hai nguồn địa nhiệt trên cũng có thể cung cấp khoảng 22 tỉ Kcal, tương đương với nhiệt lượng thu được khi đốt gần 3.000 tấn than đá.
Việc sử dụng nước khoáng vào các mục đích khác cũng được thực hiện ở một số điểm có điều kiện thuận lợi như khai thác "cát lồi", nuôi tảo Spirulina platensis bằng nguồn nước khoáng Vĩnh Hảo, tách CO2 ở nguồn Đak Mol, phục vụ du lịch ở các nguồn Bình Châu, Trường Xuân, Tân Mỹ, Tiên Lãng…
CÁC LOẠI NƯỚC KHOÁNG ĐÓNG CHAI PHỔ BIẾN Ở VIỆT NAM
Vĩnh Hảo
Vĩnh Hảo là thương hiệu nước khoáng đầu tiên của Việt Nam, bắt đầu có mặt trên thị trường từ năm 1930. Nước khoáng đóng chai Vĩnh Hảo được sản xuất từ nguồn nước khoáng ngầm nằm sâu dưới lòng đất khoảng 2.000m ở huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Đây là loại nước khoáng với thành phần chủ yếu gồm có canxi, magie, kali, natri, bicarbonate với hàm lượng cao.
La Vie
Thương hiệu nước khoáng La Vie tỉnh Long An hiện là thành viên của tập đoàn Nestlé Water - một trong những thương hiệu nước đóng chai lớn nhất thế giới.
Nước khoáng La Vie có hàm lượng khoáng chất TDS khá thấp (dưới 350mg/l), có thể sử dụng hàng ngày.
Đảnh Thạnh - Vikoda
Vikoda tỉnh Khánh Hòa là một trong những thương hiệu nước khoáng có độ kiềm tự nhiên cao, độ pH đạt chuẩn, khai thác ở độ sâu 220m, chứa 6 loại khoáng chất thiết yếu bao gồm: kali, magie, natri, canxi, flo và bicarbonate.
Sao Biển - STARFIWA
Nước khoáng Sao Biển tỉnh Trà Vinh được khai thác và sản xuất từ nguồn khoáng nóng Long Toàn sâu gần 400m trong lòng đất, chảy qua nhiều địa hình và tầng địa chất giàu khoáng chất. Đây là loại nước khoáng có tính kiềm tự nhiên (pH 8), chứa hàm lượng khoáng nhẹ (TDS dưới 390mg/l) gồm bicarbonate, natri, canxi, kali, iod, magie, flor… nên thích hợp sử dụng giải khát và góp phần bù khoáng hàng ngày cho cơ thể.
Thạch Bích
Nước khoáng Thạch Bích ở tỉnh Quảng Ngãi, nguồn nước nằm ở độ sâu 1.200m có hàm lượng muối khoáng hòa tan với các loại khoáng chất như natri, kali, magie, canxi.
Kim Bôi
Nước khoáng Kim Bôi là sản phẩm có nguồn gốc từ dòng suối nước nóng Kim Bôi thuộc huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình. Nước khoáng Kim Bôi là loại nước nóng, có nhiệt độ khoảng 360C, chứa nhiều loại khoáng chất quý giá như magie, canxi, natri, kẽm, sắt…