Virus Marburg là một loại RNA virus thuộc họ Filovirus, gây bệnh sốt xuất huyết tương tự như Ebola. Bệnh có tỉ lệ tử vong cao. Con số ghi nhận được trong các đợt bùng phát trước đây là 24% đến 88%.
Từ 7/1 đến 21/2 ghi nhận 9 trường hợp nghi ngờ nhiễm virus Marburg tại Guinea Xích Đạo (Tây Phi) trong đó có 1 ca đã xác nhận bằng xét nghiệm, tất cả các ca đều đã tử vong.
Virus Marburg lần đầu tiên được ghi nhận vào năm 1967, khi dịch sốt xuất huyết bùng phát đồng thời tại các phòng thí nghiệm ở Marburg và Frankfurt (Đức) cũng như ở Belgrade, Nam Tư (nay là Serbia).
Virus có thể lây nhiễm từ động vật sang người do tiếp xúc trực tiếp với chất dịch cơ thể của động vật nhiễm bệnh, lây truyền từ người sang người qua tiếp xúc trực tiếp với máu và dịch tiết của người bệnh hoặc các bề mặt nhiễm mầm bệnh. Thời gian ủ bệnh dao động từ 2 đến 21 ngày, bắt đầu với sốt cao, ớn lạnh, đau đầu dữ dội, đau cơ.
Theo TS.BS Phùng Mạnh Thắng, Trưởng khoa Khoa Kiểm soát Nhiễm khuẩn, Bệnh viện Chợ Rẫy, khoảng ngày thứ năm sau khi khởi bệnh, có thể xuất hiện ban dát sẩn, nổi rõ nhất trên thân (ngực, lưng, bụng). Buồn nôn, nôn, đau ngực, đau họng, đau bụng và tiêu chảy có thể xuất hiện.
Các triệu chứng ngày càng trở nên nghiêm trọng và có thể bao gồm vàng da, viêm tụy, sụt cân nghiêm trọng, mê sảng, sốc, suy gan, xuất huyết ồ ạt và rối loạn chức năng đa cơ quan. Chẩn đoán lâm sàng gặp khó khăn do bệnh này có triệu chứng tương tự như các bệnh truyền nhiễm khác (sốt rét, thương hàn, sốt xuất huyết do Ebola,… Bệnh có thể lây truyền qua đường tiếp xúc và giọt bắn.
Căn cứ tình hình diễn tiến của bệnh do virus Marburg (MVD), khoa Kiểm soát Nhiễm khuẩn, Bệnh viện Chợ Rẫy, đề nghị các khoa phòng phát hiện sớm, cách ly người bệnh, đặc biệt ở các khoa phòng có khả năng tiếp nhận bệnh nhân nhiễm virus Marburg như Cấp cứu, phòng khám, Bệnh nhiệt đới.
Nhân viên y tế tăng cường cảnh giác, phát hiện sớm và cách ly các ca bệnh xâm nhập vào Việt Nam thông qua khai thác tiền sử dịch tễ và triệu chứng lâm sàng.
Yếu tố dịch tễ
Đi về từ khu vực Tây Phi hoặc có tiếp xúc với ca nghi ngờ hoặc ca xác định MVD mà không sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân phù hợp.
Triệu chứng lâm sàng
Sốt cao, ớn lạnh, đau đầu dữ dội, đau cơ, ban dát sẩn, nổi rõ nhất trên thân (ngực, lưng, bụng), buồn nôn, nôn, đau ngực, đau họng, đau bụng và tiêu chảy,…mà không lý giải được đầy đủ bệnh lý lâm sàng bằng một nguyên nhân khác.
Các nhân viên y tế tăng cường vệ sinh môi trường bề mặt hay tiếp xúc ít nhất 2 lần/ngày hoặc khi bị bẩn.
TS.BS Thắng đề nghị nhân viên y tế của bệnh viện áp dụng các biện pháp phòng ngừa chuẩn và phòng ngừa theo đường lây: Tăng cường thực hiện vệ sinh tay. Các khoa có khả năng tiếp nhận bệnh nhân MVD cần dự trù phương tiện phòng hộ cá nhân: áo choàng hoặc tạp dề dài tay, găng tay, khẩu trang, tấm chắn…; sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân khi tiếp xúc với ca nghi ngờ.